Thư Quốc Gia Việt Nam là nền tảng lý luận ủng hộ cho Hiến Pháp 7. Bạn đọc có thể tìm hiểu được kỹ hơn những tư tưởng lập quốc có trong hiến pháp 7, hình thái Tam quyền phân lập có trong Hiến pháp 7, chi tiết về các bộ máy Hành pháp, Tư pháp, Lập pháp, phân quyền địa phương, tranh luận về cấu trúc chính phủ cũng như tầm quan trọng của Hiến pháp 7 đối với tương lai dân tộc Việt.
Hiện tại tuyển tập 100 Thư Quốc gia vẫn chưa hoàn thiện. Chúng tôi sẽ cố gắng cập nhật toàn bộ 100 Thư Quốc Gia này trong tương lai.
1. VIỆT NAM QUỐC GIA
CHỦ NGHĨA LUẬN BÚT
NỀN TẢNG LÝ LUẬN ỦNG HỘ
HIẾN PHÁP 7-2009
NĂM HÙNG VƯƠNG 4888
2009 TÂY LỊCH
2. Việt Nam Quốc gia Chủ nghĩa Luận bút
Mục lục
Thư Quốc gia số 1: Lời Giới Thiệu
Tầm quan trọng của Hiến pháp 7 (2-15)
Thư Quốc gia số 2: Tổng quát, tổng quan, về hiện trạng quốc gia
Thư Quốc gia số 3: Xem xét và tranh luận về nền Kinh tế Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 4: Ích lợi của HP7 trong việc phát triển Việt Nam thành một cường quốc
Kinh tế tại Đông Nam Á trong một phần tư thế kỷ, và tại châu Á trong nửa thế kỷ
tới
Thư Quốc gia số 5: Xem xét và tranh luận về nền Giáo dục Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 6: Ích lợi của HP7 trong việc phát triển khoa học kỹ thuật cao và chế tạo
hàng có giá trị tăng cao để xuất khẩu
Thư Quốc gia số 7: Xem xét và tranh luận về nền Quốc phòng Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 8: Ích lợi của HP7 trong việc tăng cường sức mạnh Quốc phòng Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ
Thư Quốc gia số 9: Xem xét và tranh luận về nền văn hóa và xã hội Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 10: Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy
Việt Nam trong tân thiên niên kỷ
Thư Quốc gia số 11: Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy
Việt Nam trong tân thiên niên kỷ (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 12: Xem xét và tranh luận về các vấn đề khác, chưa được bàn đến trên
đây, tại Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 13: Ích lợi của HP7 trong việc giải quyết các vấn đề khác, chưa được
bàn đến trên đây, để kiến dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh trong tân thiên
niên kỷ
Thư Quốc gia số 14: Trả lời các lời phản đối HP7
II
3. Thư Quốc gia số 15: Dân chủ là Đạo đức, một Hiến pháp Dân chủ là một Hiến pháp Đạo
đức
Các lời tranh luận về cách tổ chức chính phủ được bao gồm trong Hiến
pháp 7 (16-33)
Thư Quốc gia số 16: Ý muốn của nhân dân là điều luật Tối thượng của quốc gia, đại diện
bởi HP7
Thư Quốc gia số 17: Không hình sự hóa mọi khác biệt quan điểm chính trị, đảng cầm
quyền không được sử dụng quyền lực trấn áp các tư tưởng khác biệt
Thư Quốc gia số 18: Bất bạo động và bất sử dụng bạo lực thể xác hoặc đe dọa tinh thần
trong mọi sinh hoạt bao gồm chính trị, tôn giáo, giáo dục, ngay cả đối với tù nhân
Thư Quốc gia số 19: Về Quốc ca và Quốc kỳ
Thư Quốc gia số 20: Ba tôn chỉ của Việt Nam: Tự do, Bình đẳng, Sự thật
Thư Quốc gia số 21: Tất cả Tam quyền trong chính phủ đều phải tuân thủ HP7
Thư Quốc gia số 22: Chỉ một đa số trong các vị Thượng Thẩm phán tại Tối cao Pháp viện
mới có thể phán định rằng một điều luật nào đó là không hợp hiến
Thư Quốc gia số 23: Các đảng chính trị được tự do thành lập miễn được tổ chức theo các
quy định của HP7
Thư Quốc gia số 24: Quyền lực chính trị phải do đa số nhân dân nắm giữ
Thư Quốc gia số 25: Về việc tổ chức các cuộc bầu cử địa phương, Tuyển cử và Tổng
Tuyển cử toàn quốc
Thư Quốc gia số 26: Về việc nhân dân tự do bầu cử, ứng cử
Thư Quốc gia số 27: Về việc chia sẻ quyền lực chính trị và thành lập đảng phái chính trị
Thư Quốc gia số 28: Về việc tuân thủ Thỏa ước Nhân quyền của Liên hiệp quốc, và công
nhận quyền lực của các Tòa án quốc tế
Thư Quốc gia số 29: Về việc bất khả lạm pháp của nhân viên chính phủ đang thi hành
nhiệm vụ được giao phó
Thư Quốc gia số 30: Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự các nhân viên được bầu lên,
đang khi còn nhiệm kỳ phục vụ
III
4. Thư Quốc gia số 31: Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự, hình sự, và quốc sự tất cả
nhân viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
Thư Quốc gia số 32: Về việc không chỉ trích cấp chính phủ trong 20 năm về mọi việc làm
của tất cả nhân viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
Hình thái Tam quyền Phân lập của Chính phủ (33-48)
Thư Quốc gia số 33: Nguồn gốc của hệ thống Tam quyền phân lập, cùng các lợi ích và
điều thiệt hại
Thư Quốc gia số 34: Khác với tại nhiều nước khác, Tam Quyền tại Việt Nam đều do
nhân dân bầu trực tiếp
Thư Quốc gia số 35: Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ
Thư Quốc gia số 36: Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 37: Hiến pháp 7 điều phối Tam quyền Phân lập
Thư Quốc gia số 38: Tam quyền Phân lập cấp Thánh phố
Thư Quốc gia số 39: Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền
Thư Quốc gia số 40: Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 41: Sự tương quan của Tam quyền đối với phương cách hành xử của
người dân Việt Nam
Thư Quốc gia số 42: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của Tam quyền quốc gia
đối với các chính quyền Thành phố
Thư Quốc gia số 43: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của một Tam quyền
Thành phố đối với các chính quyền Thành phố khác
Thư Quốc gia số 44: Nguy cơ Tam quyền bị bất cân xứng
Thư Quốc gia số 45: So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành
phố
Thư Quốc gia số 46: So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành
phố (tiếp theo)
IV
5. Thư Quốc gia số 47: Trả lời các ý kiến phản đối Tam quyền Phân lập
Thư Quốc gia số 48: Các hạn chế của Tam quyền Phân lập
Về Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam (49-60)
Thư Quốc gia số 49: Tự do ngôn luận
Thư Quốc gia số 50: Bảo vệ Nhân phẩm
Thư Quốc gia số 51: Quyền tự do phát triển cá tánh và tự do bầu cử
Thư Quốc gia số 52: Mọi người bình đẳng trước pháp luật
Thư Quốc gia số 53: Tự do tín ngưỡng, lương tâm, và tôn giáo
Thư Quốc gia số 54: Tự do học hỏi
Thư Quốc gia số 55: Tự do hội họp
Thư Quốc gia số 56: Tự do di chuyển
Thư Quốc gia số 57: Tự do thành lập hội đoàn
Thư Quốc gia số 58: Tài sản và bất động sản cá nhân đều bất khả xâm phạm
Thư Quốc gia số 59: Quyền được kiện tụng luật pháp và nhân viên chính phủ
Thư Quốc gia số 60: Hạn định của nhân quyền
Các Thành phố (61-70)
Thư Quốc gia số 61: Việc tái phân định ranh giới và sát nhập các Thành phố
Thư Quốc gia số 62: Quyền lực tại Việt Nam sẽ được phân bố khắp địa phương
Thư Quốc gia số 63: Về việc thành lập và bầu chọn chính quyền Thành phố
Thư Quốc gia số 64: Các Thành phố có quyền tự trị nhưng phải tuân thủ các điều luật
chung cho toàn quốc
Thư Quốc gia số 65: Về việc các Thành phố gởi đại diện lên Quốc hội
Thư Quốc gia số 66: Về việc quản trị lãnh thổ và liên minh dân sự giữa các Thành phố
trong nước, và với các đối tác bên ngoài
Thư Quốc gia số 67: Về việc quản trị tài chánh tại các Thành phố
Thư Quốc gia số 68: Về việc lập các sắc thuế có liên quan đến cư dân từ các Thành phố
khác
V
6. Thư Quốc gia số 69: Về việc các Thành phố không được lập liên minh quân sự, quốc sự,
với bất cứ nơi nào ngoài lãnh thổ Việt Nam
Thư Quốc gia số 70: Về việc chi phí hành chánh tại các Thành phố
Ngành Tư Pháp (71-80)
Thư Quốc gia số 71: Cấu trúc của Ngành Tư pháp
Thư Quốc gia số 72: Phương cách tổ chức Tối cao Pháp viện và bầu chọn các Thượng
Thẩm phán
Thư Quốc gia số 73: Tối cao Pháp viện xem xét tất cả hoạt động của Văn phòng Tổng
thống,Thượng viện, Hội đồng Quốc gia, và các chính quyền địa phương
Thư Quốc gia số 74: Tối cao Pháp viện có quyền lực giải thích mọi vấn đề xảy ra trước
và sau khi có HP7, về các bộ luật, và hiệp ước của Việt Nam
Thư Quốc gia số 75: Hệ thống Tư pháp Dân sự, Hình sự, và Quốc sự
Thư Quốc gia số 76: Các vị Thẩm phán Quốc gia và Thẩm phán Thành phố
Thư Quốc gia số 77: Khi các vị Thẩm phán quốc gia và Thẩm phán Thành phố có sự
khác biệt quan điểm
Thư Quốc gia số 78: Ngành Tư pháp, liên quan đến các phiên tòa được quyết định bởi
Bồi thẩm đoàn
Thư Quốc gia số 79: Khi các bộ luật Thành phố và Quốc gia có sự khác biệt
Thư Quốc gia số 80: Hạn định quyền lực của Ngành Tư pháp
Ngành Lập pháp (81-90)
Thư Quốc gia số 81: Cấu trúc Ngành Lập pháp
Thư Quốc gia số 82: Hội đồng Quốc gia
Thư Quốc gia số 83: Hội đồng Quốc gia (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 84: Nghị viện
Thư Quốc gia số 85: Nghị viện (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 86: Về việc truất nhiệm Tổng thống
VI
7. Thư Quốc gia số 87: Về việc Lưỡng viện bác quyền phủ quyết của Tổng thống
Thư Quốc gia số 88: Về việc Lưỡng viện tổ chức Trưng cầu Dân ý
Thư Quốc gia số 89: Về việc Lưỡng viện đồng ý hoặc không đồng ý phát động chiến
tranh với ngoại bang
Thư Quốc gia số 90: Hạn định quyền lực của Lưỡng viện
Ngành Hành pháp (91-99)
Thư Quốc gia số 91: Cấu trúc Ngành Hành pháp
Thư Quốc gia số 92: Tại sao cần có Thủ tướng
Thư Quốc gia số 93: Về Quyền hạn của Tổng thống
Thư Quốc gia số 94: Về Quyền hạn của Tổng thống (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 95: Về Quyền hạn của Thủ tướng
Thư Quốc gia số 96: Về Quyền hạn của Thủ tướng (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 97: Về Quyền Phủ quyết của Tổng thống
Thư Quốc gia số 98: Về việc Tổng thống tổ chức Trưng cầu Dân ý
Thư Quốc gia số 99: Hạn định quyền lực của Tổng thống
Thư Quốc gia số 100: Kết luận và vài điều khác
VII
8. Thư Quốc gia số 1
Lời Mở Đầu
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Chúng tôi viết các lá thư này để kêu gọi quốc dân, đồng bào hãy đoàn kết lại vì một số
mục đích chung cho quốc gia mà có lẽ tuyệt đại đa số quốc dân đồng bào đang cùng chia
sẻ.
Quý đồng bào được mời gọi để suy nghĩ về một bản Hiến pháp mới cho đất nước chúng
ta, nước Việt Nam Dân quốc trong tân thiên niên kỷ. Đề tài này nói lên tầm mức quan
trọng của sự việc, vì lẽ bản Hiến pháp là văn bản căn bản nhất trong mọi văn bản luật
pháp, trên nền tảng đó tất cả các bộ luật sẽ được soạn thảo ra sau này. Quốc gia Việt Nam
trong 20 và 200 năm sau có ra sao là tùy thuộc vào những điều chúng ta suy luận, quyết
định, và soạn thảo hôm nay.
Kể từ khi Vua Hùng Vương thứ Nhất dựng nước Văn Lang đến nay đã qua nhiều ngàn
năm, hàng trăm triều đại, nhưng chưa có một triều đại, một chính phủ nào từ nhân dân,
của nhân dân, và vì nhân dân. Trong suốt chiều dài lịch sử trên 4000 năm trong thời
phong kiến, chỉ có "cha truyền con nối". Vào thời văn hóa, văn minh còn sơ khai, điều
này có thể thích hợp hoặc rất thích hợp vì chỉ một số rất ít dân chúng có điều kiện học hỏi
cách quản trị bộ lạc, nhóm người, quốc gia. Do đó nếu quyền hành được truyền nối cho ai
khác ngoài con vua, thì đã xảy ra nhiều cảnh tranh giành quyền lực, nội chiến xảy ra liên
miên. Nhưng "cha truyền con nối" cũng không phải là phương cách tốt nhất, vì lẽ lãnh
đạo chỉ trong số các con vua, cho dù có được giáo dục đến thế nào thì sau này cũng chỉ vì
quyền lợi ích kỷ của chính nhà vua và / hoặc của hoàng gia mà hoạt động, chứ không hẳn
là vì lợi ích quốc dân, đồng bào.
VIII
9. Cho đến khoảng 100 năm trở lại đây, do hoàn cảnh lịch sử, thời phong kiến chấm dứt, tạo
điều kiện cho các chính phủ theo đảng phái lên nắm quyền. Hết rồi cảnh "cha truyền con
nối", nhưng thay vào đó là một hình thức phong kiến khác, do các nhóm nhỏ người tự
cho mình có quyền quyết định vận mạng cả dân tộc. Thực tế họ không khác các nhà vua
thời phong kiến ở chỗ họ không từ nhân dân mà ra, không là gì của nhân dân, và nhất là
không vì nhân dân mà phục vụ. Họ hình thành các nhóm nhỏ có đặc quyền đặc lợi, từ bé
các con cháu trong nhà quan chức cao cấp đã được dạy dỗ rằng họ rất đặc biệt, khác với
dân thường, phạm tội sẽ không bị xét xử như dân thường, và sau khi học xong, hoặc du
học về, họ sẽ tiếp tục làm lãnh đạo thế hệ kế tiếp. Các thành phần này, do đó, cho dù có
học thức cao siêu đến thế nào, có lòng từ nhân đến cách mấy, khi làm lãnh đạo cũng sẽ
phải phục vụ cho phe nhóm họ chứ không thể và không hề vì lợi ích quốc dân, đồng bào.
Quốc gia Việt Nam chúng ta còn tiếp tục theo đuổi các phương cách quản trị quốc gia,
phục vụ cho các lãnh đạo quốc gia, như hiện nay cho đến bao giờ?
Bản Hiến pháp hiện nay không cho phép bất cứ sự chỉ trích chính phủ nào, còn kể gì đến
việc thay đổi chính phủ, tìm ra các lãnh đạo khác từ nhân dân, của nhân dân, vì nhân dân?
Có phải đây sẽ là một tội phạm thiên thu cho những ai chẳng qua chỉ muốn tìm ra các
lãnh đạo thực sự phục vụ cho nhân dân, do nhân dân tự do bầu chọn? Tại sao chọn lãnh
đạo lại là một tội phạm hình sự, nhẹ thì ở tù, nặng thì tử hình, toàn gia tộc bị cả hệ thống
chính trị, tuyên truyền khổng lồ trù dập đến chết mới thôi?
Kính thưa quốc dân, đồng bào Việt Nam yêu quý,
Quốc dân, đồng bào sẽ phải trả lời cho chính mình, và cho con cháu mình, các câu hỏi
đơn giản nhưng sâu sắc kể trên. Cho dù vì lý do nào đó, đồng bào cố gắng chịu đựng,
nhẫn nhịn chính phủ hiện nay, Bản Hiến pháp hiện nay, các chính sách hiện nay đặt trên
Bản Hiến pháp đó, nhưng còn thế hệ con, cháu, chắt của đồng bào, các thế hệ trẻ hiện nay
IX
10. thì sao? Có phải đồng bào muốn chúng và con cháu chúng vĩnh viễn làm nô lệ trên ngay
quê hương mình, không có tiếng nói trên chính mảnh đất mà cha ông đồng bào và có thể
chính đồng bào đã bỏ xương máu ra khai phá, gìn giữ, qua bao trận chiến chống ngoại
xâm?
Cha ông chúng ta đã hy sinh, cống hiến nhiều ngàn năm cho dân tộc ta để làm gì, để dân
tộc ta ngày nay quá ư tệ rạc về kinh tế, quá thấp về dân trí, quá ốm yếu về sức khỏe,
nhưng quan trọng hơn hết là quá bất nhân, nghĩa, trí, dũng trong chính quyền?
Đâu rồi tiếng trống trận từ thành Cổ loa, Hoa lư, Thăng long chống các điều bất nhân, bất
nghĩa trong giới cầm quyền; đâu rồi tiếng kêu gọi hiền tài ra giúp sức trong các trận chiến
kinh hồn trên Bạch đằng giang; đâu rồi các anh hùng dân tộc thường hay xuất hiện mỗi
khi dân tộc ta bị nguy khốn, khi các trận chiến chống ngoại xâm làm máu dân ta đổ thắm
lòng đất mẹ, chảy đỏ sông Hồng, xương cốt ngăn dòng nước, chỉ để dân tộc ta mãi mãi
trường tồn?
Triều đại nào rồi cũng qua đi, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, rồi cũng đi vào quá
khứ. Một số anh hùng được ghi vào sử sách, cũng có một số người bị chế giễu ngàn thu.
Hai mươi năm và hai trăm năm sau, lịch sử sẽ viết về thời đại chúng ta như thế nào,
chống ngoại xâm hay cõng rắn cắn gà nhà, xây dựng nền tự do dân chủ xã hội hay chấp
nhận bạo quyền lãnh đạo quốc gia, làm quốc gia phú cường hay ngày càng thua sút các
quốc gia quanh vùng?
Lịch sử đang xảy ra ngay trước mắt chúng ta hiện nay. Giặc ngoại xâm nay hùng mạnh
hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử, giặc nội xâm nay tinh vi, tàn ác hơn bất cứ khi nào trong
lịch sử - và không phải chỉ trong chính quyền. Nay văn hóa dân tộc ta ngày càng thoái
hóa, giao thông gây chết người và khó tránh hơn khi còn chiến tranh, nền kinh tế lụn bại,
y tế hủ bại - các điều tệ hại này hẳn quốc dân, đồng bào đều chứng kiến rõ hàng ngày.
X
11. Quốc dân, đồng bào đang được kêu gọi trả lời các câu hỏi trên, và được mời gọi đóng góp
ý kiến cho việc lập nên một Bản Hiến pháp từ sự suy nghĩ và lựa chọn, để thay thế cho
Bản Hiến pháp hiện hành được viết ra chỉ để phục vụ cho một phe phái cầm quyền, phục
vụ cho sự vĩnh viễn hóa phe nhóm này trong các chức vụ cao cấp nhất cùng các quyền lợi
khổng lồ từ các chức vụ này mang lại.
Nếu sự suy nghĩ, lựa chọn và quyết định của đồng bào là đúng, thì rất nhiều vấn đề tệ hại
sẽ được cấp bách giải quyết. Nếu không, hậu quả lâu dài sẽ khó thể tưởng tượng.
Sẽ rất may mắn cho dân tộc ta nếu sự suy nghĩ và chọn lựa này được mọi thành phần dân
chúng đóng góp ý kiến, và được dẫn dắt bởi các sự lượng định khôn ngoan hơn là các
thành kiến thị phi, sự nhân nghĩa hơn là các lời tuyên bố bạo lực, sự chính đáng hơn là
các lời tuyên truyền giả dối, lòng bác ái vị nhân hơn lòng ích kỷ phe phái.
Hơn hết, sự suy nghĩ và lựa chọn phải đặt quyền lợi của quốc gia lên trên mọi thành phần,
đảng phái; phải nhằm xây dựng hơn là phá hoại; nhằm bao dung hơn là trách móc; nhằm
tha thứ hơn là trả thù.
Nhưng, đồng bào Việt Nam yêu quý của tôi ơi, đây là một việc dễ mong ước, đặt kế
hoạch, hơn là thực hiện. Vì lẽ kế hoạch này sẽ làm thiệt hại quá nhiều quyền lợi của quá
nhiều người đang và sẽ có quá nhiều quyền hành tại Việt Nam. Nhiều quan điểm, cảm
xúc mạnh, và thành kiến sẽ tạo ra nhiều bất lợi cho cuộc cách mạng dân chủ xã hội này.
Trở ngại lớn nhất mà Tân Hiến pháp sẽ gặp là sự cản trở kinh hoàng của toàn hệ thống
chính trị tại Việt Nam. Hệ thống này đang đem lại quá nhiều, quá lớn, quyền lợi cho giới
cầm quyền nên họ sẽ không dễ dàng chấp nhận việc Tân Hiến pháp đem lại quyền lợi
đồng đều cho quốc dân, đồng bào.
Trở ngại kế tiếp là các thành phần cực đoan tại hải ngoại, một cách rất đáng tiếc, vì họ
XI
12. vẫn muốn có trả thù, có bạo lực, có lòng ích kỷ phe phái. Một số muốn tiếp tục tình trạng
hiện tại vì họ đang giữ vững quyền lợi, chức vụ họ trong hoàn cảnh bất an của quốc gia,
để họ tiếp tục các chương trình chống đối chính phủ hiện tại hơn là chấm dứt để theo đuổi
một phương cách hòa bình, hòa hoãn, bất bạo động, không hận thù, không trả thù, thậm
chí không trách móc như tinh thần Hiến pháp 7 đề cao.
Tuy nhiên, chúng tôi không muốn đề cập đến các vấn đề này quá nhiều, vì biết rằng
không thể giải quyết tất cả mọi sự phản đối, phản bác. Chúng tôi hiểu rằng hoàn cảnh lịch
sử, chiến tranh, xã hội, mất mát cá nhân và gia đình đã đẩy họ vào các quan điểm đó. Một
số trong hai nhóm trên thật ra đã có các ý tưởng trên do một lương tâm chính trực. Một số
rất đáng trân trọng và kính nể, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp đối thoại với họ, và hy vọng
rằng sau khi họ đọc một số trong số 100 bài Thư Quốc gia thì họ sẽ thay đổi ý kiến và
không còn chống Bản Hiến pháp 7.
Công việc sắp tới sẽ không dễ dàng, vì sẽ bao gồm nhiều bài tổng luận về nhiều đề tài rất
bao quát, đòi hỏi rất nhiều thời gian thu thập tài liệu trong nhiều lãnh vực khác nhau, tổng
hợp và viết ra theo hướng ủng hộ hoặc phê bình Bản Hiến pháp 7.
Chúng tôi kêu gọi quốc dân, đồng bào khắp nơi trên thế giới ủng hộ cho công việc chung
này, cụ thể là viết một loạt bài theo những đề tài sau đây:
* Tầm quan trọng và ích lợi của Hiến pháp 7
* Cách tổ chức chính phủ mới
* Tuyên ngôn nhân quyền cho Việt Nam
* Cách tổ chức các Thành phố như là các đơn vị tự trị
* Ngành Tư pháp
* Ngành Lập pháp
* Ngành Hành pháp
XII
13. Chúng tôi sẽ chọn lựa và đăng các bài phù hợp, có thể viết thêm cho thỏa đáng tất cả mọi
tranh luận hoặc phản đối về các đề tài trên. Chúng tôi cũng sẽ tự viết ra một số bài theo
tinh thần Bản Hiến pháp 7, và sẽ từ từ đăng lên các diễn đàn để mọi người cùng tranh
luận.
- Nhân dân Việt Nam -
XIII
14. Thư Quốc gia số 2
Tổng quát, tổng quan, về hiện trạng quốc gia
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Chưa bao giờ trong lịch sử 4888 năm, dân tộc ta lại phải đối diện với nhiều thử thách sâu
rộng và nghiêm trọng như hiện nay. Các kẻ thù trong quá khứ cho dù muốn xâm lăng và
đồng hóa dân tộc ta, nhưng họ thực hiện một cách không đồng nhất, không bài bản, chỉ
có ý nghĩa cục bộ và trong từng thời đại vua quan của họ, chứ không tạo thành một chính
sách quốc gia chính thức và kéo dài nhiều thập kỷ, thậm chí thiên niên kỷ như hiện nay.
Ngoài giặc ngoại xâm, ngay cả giặc nội xâm của dân tộc ta cũng không kém phần nguy
hại. Và không chỉ trong chính trị, ngay cả trong luật pháp, kinh tế, xã hội cũng có biết
bao mối nguy hại mà nếu không lập tức loại trừ và tái tạo dựng cho hoàn thiện hơn, thì
chỉ trong vài thập niên nữa mạch sống, dân tộc tính của chúng ta có thể bị diệt trừ và
tuyệt chủng.
Không gì đáng thương cho bằng một dân tộc bị mất quốc tính tốt đẹp, sa đọa vào vòng
hổn loạn vô đạo đức, vô pháp luật, vô trật tự, mà chính mọi thành phần trong dân tộc đó
còn không biết họ sai để sửa chữa
Trong bài này, hiện trạng Việt Nam sẽ được khảo sát một cách tổng quan, tổng quát. Thư
Quốc gia số 3 đến số 15 sẽ xem xét các vấn đề nội bộ Việt Nam một cách chi tiết hơn, và
đưa ra các lý luận về Ích lợi của Hiến pháp 7 trong việc tái tạo Quốc hồn Quốc túy Việt
Nam, và nâng cao giá trị quốc gia cùng nhân phẩm nhân dân Việt Nam lên một tầm cao
mới trong tân Thiên niên kỷ này.
XIV
15. 1. Tóm lược Lịch sử Việt Nam cận đại
Năm 1858, Pháp quốc dưới nền Đệ Nhị Quân chủ Lập hiến do Hoàng đế Napoléon Đệ
Tam thành lập năm 1852 quyết định đem quân xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Theo Hiến pháp Quốc gia Pháp được thành lập năm 1852, Hoàng đế có toàn quyền Hành
pháp, ngoài ra còn có toàn quyền xếp đặt toàn bộ các nhân vật trong Hội đồng Quốc gia
với nhiệm vụ soạn luật, và toàn bộ nhân vật trong Thượng viện thông qua các bộ luật
dưới sự chi phối của Hoàng đế.
Như vậy, cuộc xâm lăng và chiếm đóng Việt Nam hoàn toàn không do ý muốn của nhân
dân Pháp quốc, mà do tham vọng của giới cầm quyền không hề được dân bầu lên. Chính
nhân dân Pháp cũng chịu vô vàn đau khổ dưới các chính phủ thay phiên nhau đàn áp dân
lành trong suốt thời gian nhân dân Việt Nam cùng chịu chung số phận.
Nền Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp mãi đến năm 1958 mới được thành lập, có Hiến pháp mới,
và sau đó các vị Tổng thống được nhân dân Pháp bầu lên đều tiến hành việc trao trả độc
lập cho tất cả các thuộc địa, vì nhân dân Pháp từng chịu quá nhiều đau khổ trong các chế
độ bất dân chủ và kháng dân chủ trước đó, nay không hề muốn bất cứ nhân dân nào trên
thế giới cùng chịu như vậy, nhất là lại dưới sự đô hộ của quốc gia họ.
Từ năm 1858, cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam đến 26 năm sau mới kết thúc với
việc Pháp chiếm toàn bộ Việt Nam, và Việt nam trở thành một trong ba quốc gia, cùng
với Lào và Cambodia, trong Đông dương Thuộc Pháp (French Indochina) năm 1887.
Ngoại trừ cuộc chiếm đóng của quân đội Nhật Hoàng năm 1941 đến 1945, Việt Nam là
một thuộc địa của Pháp cho đến năm 1954. Ông Hồ Chí Minh lãnh đạo quân đội Việt
Nam thuộc nhiều phe phái chính trị khác nhau cùng đoàn kết đánh Pháp và giành độc lập
cho Việt Nam, tuy nhiên do quân đội còn yếu, quân đội Việt Nam phải rút về phía Bắc Vĩ
XV
16. tuyến 17 như được các phe phái tham chiến và quốc tế đồng ý trong Hiệp định Geneva ký
năm 1954.
Hoa kỳ rất tận tình giúp đỡ thành lập Việt Nam Cộng hòa, thuộc phía Nam vĩ tuyến 17,
thành lập nền Đệ Nhất Cộng hòa năm 1956, và Đệ Nhị Cộng hòa năm 1967. Việt Nam
Cộng hòa được thành lập dưới tiêu chỉ Dân chủ Lập hiến, theo Chủ nghĩa Tư bản, tôn
trọng Tư do Ngôn luận, Dân chủ Xã hội. Do khó khăn kinh tế vì nhiều lý do vào đầu
thập niên 1970, Hoa kỳ rút bớt và cuối cùng cắt toàn bộ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa
từ cuối năm 1974, đưa đến cuộc sụp đổ kinh tế và quân sự vào tháng 4, 1975.
Trong khi đó, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thuộc phía Bắc vĩ tuyến 17, được
hơn 15 quốc gia trong khối Cộng sản Quốc tế, nổi bật nhất là Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa, tận tình giúp đỡ không suy chuyển trong suốt thời gian cuộc chiến 10 ngàn ngày tại
Việt Nam. Do đó, đang khi Việt Nam Cộng hòa bị đồng minh Hoa kỳ bỏ rơi và gặp khó
khăn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dễ dàng xua quân xâm lăng và xâm chiếm, với số
thương vong rất tối thiếu.
Sau đó, cho dù có "hòa bình", Việt Nam thực tế vẫn là một quốc gia bị Cộng sản Quốc tế
chiếm đóng. Các chính sách kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, đều được nhập vào từ bên
ngoài lúc đầu chủ yếu là từ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, và sau đó là từ Liên bang Xô
viết. Các chính sách này đa số không phù hợp với dân tộc tính và tình hình Việt Nam, do
đó đa số đều thất bại thảm hại.
Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội triền miên sau 1975. Mãi cho đến khi
khối Cộng sản Quốc tế sụp đổ vào cuối thập niên 1980, chính phủ Việt Nam buộc lòng
phải có một số thay đổi về chính sách kinh tế, xã hội, quan trọng nhất là vấn đề "ra đi có
trật tự" cho người Việt Nam được thân nhân từ nước ngoài bảo lãnh đoàn tụ, sau đó gởi
ngoại tệ về Việt Nam trong suốt 20 năm qua. Kể từ khi có cuộc "đổi mới" này, nền kinh
tế Việt Nam tránh khỏi bị sụp đổ do ba yếu tố quan trọng nhất: (1) Kiều hối, (2) bán dầu
XVI
17. thô, (3) viện trợ và mượn nợ khối Tư bản Chủ nghĩa.
Hiện nay, về chính trị và lý luận chính trị, Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa, và mô hình phát triển của quốc gia này đang là mẫu mực cho nhiều
kinh tế gia, chính trị gia Việt Nam noi theo.
2. Các tư tưởng chính trị Việt Nam trong và ngoài nước
2.1. Hệ tư tưởng Cộng sản Quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam (gọi tắt là "Đảng" - do chỉ có một nên không lẫn lộn) là đảng
duy nhất được chính thức hoạt động tại Việt Nam. Đảng có 15 người đứng đầu, tạo thành
Bộ Chính trị, là cơ quan quyền lực cao nhất tại Việt Nam.
Đảng có khoảng 3 triệu đảng viên, là một tổ chức kín đáo, bí mật, tuyển chọn đảng viên
theo tiêu chuẩn riêng và không ai có quyền tham gia trừ khi được các cấp Đảng ủy cho
phép và cho gia nhập.
Các đảng viên được quyền đặc miễn bắt giữ và đặc miễn truy tố, trừ khi được các cấp
đảng ủy trực tiếp ra lệnh theo cách khác thông lệ. Các phiên tòa xử đảng viên, cho dù
xảy ra, đều được dàn xếp trước để khỏi mất uy tín Đảng.
Đảng chỉ huy hệ thống luật pháp, chỉ định các lãnh đạo nhà nước, và bổ nhiệm các nhân
vật trong Quốc hội. Đảng kiểm soát mọi hoạt động và tư tưởng tại Việt Nam.
Luật pháp Việt Nam được soạn theo lý thuyết luật pháp Cộng sản, trong đó không ai
được phép chỉ trích bất cứ hành động nào của bất cứ ban ngành nào thuộc chính phủ Việt
Nam, và mọi lãnh đạo đều không do dân bầu lên mà do Đảng chỉ định.
XVII
18. Mọi phiên tòa đều được dàn xếp trước, trong đó các bị can bị định tội trước khi phiên tòa
bắt đầu, do đó Việt Nam không có hệ thống pháp lý công bằng, không có công lý, không
có luật pháp, và cũng không có bình đẳng trước pháp luật.
Sau khi khối Cộng sản Quốc tế sụp đổ một phần lớn tại Liên bang Xô viết và Đông Âu,
trong vài năm, Đảng vấp phải nhiều khủng hoảng nội bộ trong lý luận về sự tồn tại và ích
lợi của Đảng trong việc tiếp tục cai trị quốc gia.
Tuy nhiên, sau đó Đảng nối lại liên lạc với Đảng Cộng sản Trung quốc và nay hoàn toàn
bị chi phối, điều khiển, và quản trị bởi Đảng Cộng sản Trung quốc và quốc gia Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa về mọi mặt kinh tế, tài chánh, quân sự, tình báo, lãnh thổ, nhân lực
lãnh đạo, và quan trọng nhất là lý luận Cộng sản Quốc tế.
Sự chi phối toàn diện bởi Đảng Cộng sản Trung quốc hầu như chắc chắn sẽ tiếp tục trong
nhiều năm, thậm chí nhiều thập niên tới đây, ngày nào mà Đảng còn cai trị Việt Nam.
Nói khác đi, Đảng Cộng sản Trung quốc đang và sẽ tiếp tục cai trị Việt Nam thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa
Do hoàn cảnh lịch sử kể từ sau Hiệp định Geneva năm 1954, lãnh thổ Việt Nam phía
Nam vĩ tuyến 17 thuộc Thế giới Tự do, về mặt chính trị không khác với Nam Triều tiên
và Tây Đức, đều là tiền đồn đối nghịch với Bắc Việt Nam, Bắc Triều tiên, Đông Đức
thuộc khối Cộng sản Quốc tế.
Do phe Thế giới Tự do bị khủng hoảng kinh tế vào đầu thập niên 1970, nổi bật nhất là
XVIII
19. cuộc khủng hoảng dầu hỏa tại Trung đông đẩy giá xăng dầu lên cao trên 300% trong
vòng vài năm, nạn khan hiếm xăng dầu gây thất nghiệp và lãi suất ngân hàng cao chưa
từng thấy, đời sống nhân dân các quốc gia thuộc Thế giới Tự do gặp khó khăn không
lường trước và không thể giải quyết.
Để giữ các tiền đồn quan trọng tại Tây Đức và Nam Triều tiên, buộc lòng Thế giới Tự do
trong đó quan trọng nhất là Hoa kỳ phải buông rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Việt Nam Cộng Hòa bị mất tên, tuy nhiên, lý tưởng tự do, dân chủ, công lý, công bằng xã
hội, bình đẳng trước pháp luật, vẫn còn tồn tại trong số đông người dân từng sống qua
thời kỳ 1954-1975 tại phía Nam vĩ tuyến 17, và nay truyền lại cho con cháu họ.
Một số còn sống tại Việt Nam phải làm ngơ và tránh đưa ra ý kiến chính trị, ý kiến tôn
trọng các lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa, vì sợ bị Đảng khép tội và bỏ tù nhiều năm.
Một số ra hải ngoại tuy phải tìm kế sinh nhai nhưng vẫn còn tư tưởng tôn trọng các lý
tưởng này, nhưng không có dịp bày tỏ, chỉ ngoại trừ việc giảng dạy lại cho con cháu.
Do Đảng độc quyền cai trị Việt Nam, độc quyền tư tưởng, độc quyền lý tưởng, các tư
tưởng và lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa nay đang tạm thời bị che khuất, không được
bày tỏ tại Việt Nam. Một số người lên tiếng vì lương tâm quốc gia đều bị bắt, xử tù
nhiều năm, thậm chí đã bị tử hình cho dù họ chỉ kêu gọi một cách bất bạo động và chính
họ không có một tấc sắt trong tay.
Hiện trạng này có lẽ còn kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, vì Đảng Cộng sản
Trung quốc rất quan ngại việc Việt Nam có thể có tự do, dân chủ như Nam Triều tiên,
Tây Đức.
Chính vì lý do quan ngại đó mà Đảng Cộng sản Trung quốc đã tận tình giúp đỡ Việt Nam
XIX
20. Dân chủ Cộng hòa trong 30 năm chiến tranh trước đây, và nay chính sách này không thay
đổi trong việc tiếp tục giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục cai trị Việt Nam theo lý
luận Cộng sản Quốc tế.
Đứng trước sự xâm lăng của kẻ thù quá hùng mạnh là Cộng hòa Nhân dân Trung hoa,
Đảng Cộng sản Trung quốc, hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa đang bị yếu thế, và rất khó
chống trả việc bị đè bẹp tại Việt Nam.
Việc đem lại các tư tưởng, lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa, tương tự như của Tây Đức
và Nam Triều tiên - nay còn gọi là Hàn quốc - trở lại Việt Nam, do đó, vào thời điểm
hiện nay chỉ có một tia hy vọng rất mong manh.
2.3. Hệ tư tưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Một số đảng viên kỳ cựu trước đây của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn hoài cổ và hy
vọng trở lại thời hậu Cách mạng Tháng Tám, khi Hiến pháp 1946 của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chấp nhận một số đảng nhỏ trong Quốc hội.
Số người này, có thể nói rất có tinh thần quốc gia và theo Quốc gia Chủ nghĩa hơn là
Cộng sản Chủ nghĩa, muốn có quốc gia phú cường, độc lập khỏi Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa và Đảng Cộng sản Trung quốc.
Tuy nhiên, cũng như hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa, họ cũng đang bị vùi dập, tuy với
mức độ ít tàn bạo hơn, vì dù sao họ từng có tên tuổi, và nhiều năm theo Đảng.
Đa phần trong số họ nay chỉ bị thất sủng, hoặc an trì tại một nơi nào đó, có nơi ở và
lương thực tạm đủ.
XX
21. Mọi vây cánh bị siết chặt, họ không còn có thể nói hoặc làm gì một cách công khai các tư
tưởng vì quốc gia, dân tộc mà họ tham gia vào Đảng từ lúc ban đầu chẳng qua vì muốn
chống giặc ngoại xâm, chứ không hề muốn đem lại một cuộc xâm lăng khác từ Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa còn lâu dài và nguy hiểm hơn.
Hệ tư tưởng này tồn tại rất yếu, vì không có lý luận vững chắc về cấu trúc kinh tế, xã hội,
chính trị. Một tư tưởng 'vì quốc gia" mông lung nào đó sẽ không đủ để xây dựng quốc
gia, và quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thật ra vẫn phụ thuộc rất sâu đậm vào Cộng
hòa Nhân dân Trung hoa và Đảng Cộng sản Trung quốc, cùng hơn 15 quốc gia khác
trong khối Cộng sản Quốc tế.
Như vậy, cho dù Hiến pháp 1946 được tái tạo dựng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
tái thành lập, thì sẽ vẫn không có chỗ dựa và lý luận chính tri, cấu trúc kinh tế, xã hội,
nhân văn, để tồn tại một cách vững mạnh. Có khi lại tạo dựng ra một thế chế độc tài, độc
quyền, độc đoán không khác hiện nay mà họ muốn thay đổi.
2.4. Hệ tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội
Một số bạn trẻ tại Việt Nam gần đây do du học hoặc qua tiếp xúc với các nền văn minh
Âu Mỹ muốn đem lại công bằng xã hội, dân chủ, phổ thông đầu phiếu, cho Việt Nam.
Số người này nói chung rất năng động, rất có nhiệt huyết và hăng hái trong các phong
trào chống Trung quốc xâm lăng, chống tham nhũng. Họ cũng rất can đảm, nói chung
còn can đảm hơn số người có tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trên đây.
Họ thành lập các diễn đàn, các nhóm thảo luận trên mạng internet, ra nhiều tờ báo thường
ký chống các sai trái trong xã hội, chống việc các ngư dân Việt Nam bị sát hại trên biển,
XXI
22. chống các Hiệp định biên giới bị Chính phủ Việt Nam lén lút ký kết và không hề công bố
ngay cả sau khi đã ký kết nhiều năm.
Tuy nhiên, gần đây do Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ra lệnh bắt bớ, họ bị đàn
áp rất mạnh bạo tại Việt Nam, một số bị bắt, bị cô lập trong nhiều tháng không được gặp
thân nhân. Một số có thể bị đem ra xét xử và bị bỏ tù nhiều năm.
Cũng như hai nguồn tư tưởng trên đây, có lẽ hệ tư tưởng này cũng dần dần bị ép vào
thinh lặng. Nhiều phần tử từng tham gia tuy vẫn sẽ giữ nguyên ý kiến, lý tưởng của họ,
nhưng tại Việt Nam thì không dám lên tiếng, còn tại hải ngoại thì chỉ giảng dạy lại cho
con cháu.
2.5 Hệ tư tưởng Hiến pháp 7
Đây là hệ tư tưởng hoàn toàn mới và gần đây nhất, do một số người thuộc "thế hệ 1,5" đề
xướng. Đây là thế hệ khoảng từ 30-45 tuổi, từng có giáo dục ít nhất thuộc cấp trung học
tại Việt Nam, nhưng sau đó thụ huấn nền giáo dục đại học và / hoặc sau đại học tại các
quốc gia có người Việt Nam định cư.
Thế hệ này hiểu rất rõ Việt Nam, nhưng đồng lúc cũng có cái nhìn của người ngoại quốc
có học thức nhìn vào và đánh giá hiện trạng Việt Nam, và đưa ra phương hướng giải
quyết.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu rõ các nổi suy tư thầm kín và công khai của các người
thuộc các Hệ tư tưởng trên đây. Thư Quốc gia số 1 đã nêu rõ, "Một số trong hai nhóm
trên [hệ thống chính trị Việt Nam và cực đoan hải ngoại] thật ra đã có các ý tưởng trên do
một lương tâm chính trực. Một số rất đáng trân trọng và kính nể..."
XXII
23. Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu rõ sự hy sinh cống hiến cho nền độc lập dân tộc của Hệ tư
tưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là sự hy sinh cống hiến vô giá, vô bờ bến, đáng
được trân trọng và ghi vào trang vàng lịch sử dân tộc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ thật ra không cần thiết vì như trên đây đã ghi, chỉ cần 4 năm
sau đó, năm 1958 khi nhân dân Pháp thông qua và phê chuẩn Hiến pháp nền Đệ Ngũ
Cộng hòa, thì Pháp cũng đã trả lại độc lập cho Việt Nam không cần phải qua chiến tranh,
như Pháp trả lại độc lập cho hàng chục thuộc địa và vùng lãnh thổ khác. Việt Nam đã
không là một ngoại lệ.
Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1940, các anh hùng chiến đấu vì nền độc lập Việt Nam
không thể đoán trước việc Pháp sẽ thông qua Hiến pháp mới, rồi sau đó trao trả độc lập.
Hiến pháp 1946 khi thông qua cũng là một bản Hiến pháp hay, tuy sau đó không được
thực hiện đúng đắn.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 cũng hiểu rõ và vô cùng trân trọng Hệ tư tưởng dân chủ, công
bằng xã hội, nhất là về tính can đảm, trung trực, của một số thành viên nay đang lâm vào
cảnh lao tù - và có thể nhiều năm.
Ngày nào đó, dân tộc Việt Nam sẽ cảm ơn và ghi tên họ vào trang sử vàng dân tộc, như
đang và sẽ ghi tên một số người đã hy sinh trong cuộc chiến chống Pháp vì nền độc lập
dân tộc. Họ cũng đang chống giặc ngoại xâm, và kẻ thù này càng thâm độc và nguy hiểm
hơn Pháp gấp nhiều lần.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu và thông cảm với một số đông thuộc Hệ tư tưởng Cộng sản
Việt Nam. Một số đông Đảng viên gia nhập Đảng vì hoàn cảnh gia đình, xã hội. Một số
xem đó là cách sinh nhai, một sinh lộ, một thoát lộ, cho cuộc sống đang quá khó khăn.
Một khi gia nhập Đoàn, họ khó thể rút ra vì sẽ bị một số điều thiệt hại nặng nề trong việc
làm, sự nghiệp. Sau đó, dần dần họ càng bị dấn sâu vào vòng chính trị, họ buộc phải gia
XXIII
24. nhập Đảng để có thêm quyền hành, thêm cơ hội thăng tiến xã hội và chính quyền. Ngoài
ra lại còn có gia đình cần họ gia nhập Đảng cho "cả họ được nhờ". Một khi vào rồi thì
buộc phải "trả ơn" cho quá nhiều đảng viên khác, do đó sinh ra nạn bao che, bè phái,
tham nhũng, hối lộ.
Hiến pháp 7 hiểu rõ, do đó tạo thoát lộ an toàn cho tất cả Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Sẽ không có trả thù, không có thanh trừng, cũng không có trách móc hoặc tịch thu tài sản
bất cứ một Đảng viên nào cho dù còn sống hay đã qua đời, một khi Hiến pháp 7 được
nhân dân Việt Nam thông qua, và cho phép tha thứ TẤT CẢ mọi lỗi lầm cho dù cố ý hay
vô tình của TẤT CẢ mọi Đảng viên còn sống hay đã qua đời trước đây.
Ông Hồ Chí Minh vẫn sẽ được tự do tôn sùng, thờ phụng, chỉ là sẽ không dùng tiền ngân
khố quốc gia làm việc đó, mà chỉ từ tiền đóng góp tự nguyện cá nhân.
Hiến pháp 7 công nhận sự tồn tại và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, và Đảng
này toàn quyền tự do ứng cử, đưa Đảng viên vào Quốc hội, thậm chí làm Tổng thống,
Thủ tướng, nếu được nhân dân bầu chọn.
Như vậy, Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 dung hòa và bao gồm mọi Hệ tư tưởng trên đây, đồng
lúc mở ra vô vàn cơ hội cho toàn thể nhân dân Việt Nam tham gia vào các quyết định
chung cho toàn quốc, toàn dân tộc. Mỗi người dân đều có một lá phiếu bình đẳng trong
việc chọn lựa ra lãnh đạo tương lai của quốc gia, dân tộc.
Hiến pháp 7 lấy tự do, dân chủ, công lý, công bằng xã hội, bình đẳng trước pháp luật làm
các cột mốc lập quốc, trên nền tảng chữ NHÂN làm đầu. Đó là Nhân đạo, Nhân ái, Nhân
quyền, Nhân phẩm, Nhân dân.
XXIV
25. Một quốc gia đặt nền tảng trên các điều này sẽ vĩnh viễn phú cường và toàn vẹn lãnh thổ,
mọi người dân sẽ được tự do, hạnh phúc, trong một quốc gia do chính họ thật sự làm chủ,
được quản trị bởi các chính phủ do dân, vì dân, và từ nhân dân chọn lọc ra.
3. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam
3.1. Địa lý và các Tỉnh thành
Việt Nam nằm tại Đông Nam châu Á, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào và
Cambodia, phía Bắc giáp Trung Quốc. Việt Nam có diện tích 331.210 km vuông, đứng
hàng thứ 65 trên thế giới về diện tích, trong đó có 310.070 km vuông đất đai và 21.140
km vuông sông ngòi, kênh rạch. Về đất đai, Việt Nam có 4639 km đường biên giới trong
đó 1228 km với Cambodia, 1281 km với Trung quốc, 2130 km với Lào. Việt Nam có
3444 km dọc theo bờ biển, chưa tính các hải đảo.
Việt Nam hiện có 64 tỉnh thành: An giang, Bắc giang, Bắc Kạn, Bạc liêu, Bắc ninh, Bà
rịa - Vũng tàu, Bến tre, Bình định, Bình dương, Bình phước, Bình thuận, Cần thơ, Cà
mau, Cao bằng, Đà nẵng, Dac Lak, Đắc nông, Điện biên, Đồng nai, Đồng tháp, Gia lai,
Hà giang, Hà nam, Hà nội, Hà tỉnh, Hải dương, Hải phòng, Hậu giang, Hòa binh, Hồ Chí
Minh, Hưng yên, Khánh hòa, Kiên giang, Kon tum, Lai châu, Lâm đồng, Lạng sơn, Lào
cai, Long an, Nam định, Nghệ an, Ninh bình, Ninh thuận, Phú thọ, Phú yên, Quảng bình,
Quảng nam, Quảng ngãi, Quảng ninh, Quảng trị, Sóc trăng, Sơn la, Tây ninh, Thái bình,
Thái nguyên, Thanh hóa, Thừa thiên - Huế, Tiền giang, Trà vinh, Tuyên quang, Vĩnh
long, Vĩnh phúc, Yên bái.
Về khí hậu, Việt Nam có khí hậu nhiệt đới tại miền Nam, và gió mùa tại miền Trung và
Bắc. Nhìn chung, Việt Nam không có bốn mùa xuân hạ thu đông, mà chỉ có mùa mưa và
nóng vào tháng 5 đến tháng 9, mùa khô và bớt nóng vào tháng 10 đến tháng 4.
XXV
26. Về địa hình, Việt Nam có đồng bằng thấp trũng tại miền Nam và miền Bắc, nhiều đồi núi
và cao nguyên tại miền Trung, Tây, và Tây Bắc.
Ngọn núi Fan Si Pan cao nhất Việt Nam, khoảng 3144 m so với mặt nước biển.
Tuy có chiều dài 1650 theo đường thẳng từ Bắc xuống Nam, tại vùng hẹp nhất theo bề
ngang chỉ có 50 km.
Đất trồng trọt tại Việt Nam bao gồm 20,14% diện tích đất đai, bao gồm 6,93% dùng làm
nông nghiệp quanh năm. Khoảng 72,93 đất còn lại là các thành thị và vùng đồi núi
không dùng cho nông nghiệp.
Vùng sông ngòi Việt Nam có 891,2 km khối nước ngọt có thể dùng để trồng trọt và dùng
làm nước uống, nước sinh hoạt, trong đó Việt Nam sử dụng hàng năm khoảng 71,39 km
khối nước ngọt hàng năm, với 5,71 km khối cho sinh hoạt trong gia đình, 17,13 km khối
cho công nghiệp, và 48,55 km khối cho nông nghiệp. Mỗi nhân khẩu, như vậy, sử dụng
khoảng 820 m khối nước hàng năm.
Về thiên tai, Việt Nam thường có bão lụt tại miền Trung vào khoáng từ tháng 5 đến tháng
1, theo sau đó là lụt lội. Tại vùng trũng Đồng bằng sông Cửu long cũng thường hay có
mùa nước lớn có thể gây lũ lụt vào các tháng này, do mưa lớn gây ra.
Trong các năm gần đây môi trường thiên nhiên tại Việt Nam bị hủy hoại rất nhiều, do nạn
đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng lấy gỗ và làm củi đốt. Hiện trạng này chẳng những
làm diện tích rừng cây ngày càng bị thu hẹp, mà còn làm đất đai bị xói mòn, nguồn nước
bị ô nhiễm, mà còn gây lụt lội cho hạ nguồn vì dòng nước chảy không còn được rừng làm
chậm lại và điều tiết.
XXVI
27. Nạn thành thị hóa cũng gây hại cho đời sống thiên nhiên nhiều loại côn trùng có lợi,
nhiều loại động vật sông ngòi bị tận diệt hoặc thoái hóa do chất độc thải ra từ các khu
công nghiệp. Các chất thải độc hại này cũng phá hại nguồn nước trước kia có thể sử
dụng, nay phải cho chảy ra biển và không thể tái tạo.
Do môi trường nông ngư nghiệp ngày càng khắt nghiệt, lại thêm nhiều vùng bị lụt lội liên
tục do nạn phá rừng, nông ngư dân nhập cư ào ạt vào các thành phố lớn gây ô nhiễm
không khí, tắc nghẽn giao thông ngày càng trầm trọng.
Các dịch vụ công cộng, an sinh xã hội như bệnh viện, nhà trẻ, trường học tại các thành
phố lớn hiện đang bị quá tải nặng nề cũng vì các vấn đề hủy hoại môi trường thiên nhiên
kể trên. Một số trẻ thuộc tuổi đi học do cha mẹ nhập cư nên không được cho vào học,
gây tình trạng thất học, thiểu học rất cao trong các năm gần đây.
3.2. Nhân sinh xã hội
Theo thống kê mới nhất vào tháng 7. 2009, Việt Nam hiện có 86.967.524 người, đông
hàng thứ 13 trên thế giới. Trong đó, 0-14 tuổi khoảng 24,9%, từ 15-64 tuổi khoảng
69,4%, trên 64 tuổi khoảng 5,7%, 1/2 dân số Việt Nam dưới 27,4 tuổi. Hàng năm, Việt
Nam tăng dân số khoảng 0,977% (khoảng 850.000 người một năm), thuộc hàng 128 về
tăng dân số trên thế giới.
Tỉ lệ di dân ra nước ngoài của Việt Nam hiện nay vào khoảng 33 ngàn người một năm.
Tỉ lệ nhập cư vào các thành phố hiện vào khoảng 3,1% hàng năm, tức khoảng 2,7 triệu
dân hàng năm, trong khi toàn quốc hiện chỉ có khoảng 28% dân sống trong các thành phố
(24,25 triệu). Theo tỉ lệ, như vậy tại các thành phố hiện có nạn tăng dân số khoảng 11%
hàng năm.
XXVII
28. Tuổi thọ trung bình hiện nay là 71,58 tuổi, vào hàng 127 trên thế giới về sống thọ, trong
đó phụ nữ sống 74,57 tuổi, nam giới sống 68,78 tuổi.
Mỗi phụ nữ Việt Nam sinh trung bình 1,83 trẻ em, đứng hàng 154 trên thế giới về tỉ lệ
này.
Về bệnh tật, các loại bệnh có tỉ lệ bệnh cao nhất là:
- Do thực phẩm gây ra: tiêu chảy do vi trùng, viêm gan do siêu vi A, sốt thương hàn
- Do truyền nhiễm: sốt xuất huyết, sốt rét, sưng màng óc Nhật bản, dịch hạch, viêm gan
siêu vi B và C
Dân tộc Việt Nam có 54 sắc dân, trong đó người Kinh chiếm 86,2%, Tày 1,9%, Thái
1,7%, Mường 1,5%, Khmer 1,4%, Hoa 1,1%, Nùng 1,1%, Hmông 1%, và các nhóm
người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán Dìu, v.v... Ngoại trừ người Kinh, đa số các sắc dân
khác sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông
Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người.
Về tôn giáo, Việt Nam có các tôn giáo chính: đạo Phật với 9,3% dân số, theo sau là đạo
Thiên chúa 6,7%, Hòa hảo 1,5%, Cao đài 1,1%, Tin lành 0,5%, Hồi giáo 0,1%, không có
tôn giáo 80,8%.
Về ngôn ngữ, tiếng Việt hiện là ngôn ngữ chính, theo sau là tiếng Anh, Pháp, Quảng
đông, Phổ thông, Khmer, tiếng miền núi (Mon-Khmer và Malayo-Polynesian).
Về trình độ học vấn, 90,3% dân chúng trên 14 tuổi biết đọc biết viết, trong đó có 93,9%
nam giới và 86,9% nữ giới.
Việt Nam chi tiêu 1,8% Tổng sản lượng quốc gia cho giáo dục, đứng hàng 171 trên thế
giới theo tỉ lệ.
XXVIII
29. 3.3. Nội trạng nền kinh tế, phương hướng phát triển kinh tế hiện tại
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đông dân, trong một phần ba thế kỷ qua đã
phải trải qua cuộc hồi phục kinh tế sau chiến tranh, mất sự ủng hộ kinh tế của khối Cộng
sản Quốc tế, và sự cứng nhắc của một nền kinh tế tập quyền. Kể từ 2001, chính phủ Việt
Nam đã nhiều lần tuyên bố sẽ tiếp tục con đường tự do hóa nền kinh tế và hội nhập quốc
tế. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về cấu trúc nền kinh tế để từng bước
hiện đại hóa nền kinh tế và sản xuất nhiều hàng hóa để xuất khẩu, thu hút ngoại tệ.
Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Tự do Mậu dịch khối ASEAN (ASEAN Free Trade
Area, AFTA) và Hiệp ước Mậu dịch Song phương với Hoa kỳ (Vietnam-US Bilateral
Trade Agreement) vào tháng 12, 2001 càng làm thay đổi và tiến bộ về kinh tế và thương
mại cho Việt Nam.
Giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa kỳ tăng 900% từ 2001 đến 2007. Việt Nam
tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1, 2007 sau hơn 10 năm
thương thuyết. Tư cách thành viên WTO giúp Việt Nam có chỗ dựa vững chắc để tham
gia vào thị trường thế giới và củng cố quá trình cải cách kinh tế nội địa. Ngoài các lợi ích
khác, tham gia vào WTO cũng giúp Việt Nam không còn chịu xuất khẩu theo hạn mức
từng được quy định trong Hiệp ước về Vải sợi và Hàng may mặc (Agreement on Textiles
and Clothing).
Sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia bị giảm sút từ 25% năm 2000
xuống còn 20% năm 2008. Theo các con số được công bố, tỉ lệ nghèo đói đã giảm rất
mạnh, rất mau, và nay tỉ lệ này thấp hơn tại Trung quốc, Ấn độ, và Phi Luật Tân. Tuy
nhiên, có nhiều điểm đáng nghi ngại trong tỉ lệ được công bố này, nhất là khi cùng lúc
nhiều thông báo về hàng trăm ngàn nhân khẩu bị mất hết nhà cửa, phương tiện sinh sống
XXIX
30. qua các cuộc bão lụt trong các năm qua.
Việt Nam đang cố gắng hoạt động để tạo việc làm cho lực lượng lao động đang tăng thêm
khoảng 1 triệu 500 ngàn người hàng năm.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay chắc hẳn sẽ giới hạn khả năng tạo việc làm
và giảm bớt tỉ lệ nghèo khó. Trong khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu bị sụt giảm trong
năm 2009, Việt Nam với nền kinh tế thiên về xuất khẩu - chiếm 68% tổng sản lượng quốc
gia năm 2007 - sẽ phải bị giảm xuất khẩu, tăng tỉ lệ thất nghiệp và phá sản trong giới
doanh thương và sản xuất, cùng lúc giảm đầu tư ngoại quốc.
Tổng sản lượng quốc gia năm 2008: 242,3 tỉ USD theo tỉ giá sức mua (purchasing power
parity), đứng hàng thứ 46 trên thế giới; và 89,83 tỉ USD theo tỉ giá ngoại tệ chính thức.
Tăng trưởng kinh tế năm 2008: 6,2% theo con số chính thức, hạng 54 trên thế giới.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2008: 2,800 USD theo tỉ giá sức mua, đứng hàng 168
trên thế giới; và 1.038 USD theo tỉ giá ngoại tệ chính thức.
Về nội lực kinh tế, 22% tổng sản lượng quốc gia từ nông nghiệp, 39,9% từ công nghiệp,
và 38,1% từ các ngành dịch vụ .
Việt Nam có lực lượng lao động gồm 47,41 triệu người, đứng hàng thứ 12 trên thế giới.
Trong đó, 55,6% làm nông nghiệp, 18,9% công nghiệp, và 25,5% dịch vụ.
Tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong năm 2008 - theo con số chính thức rất không đáng tin
cậy, là 4,7% - hàng 59 trên thế giới.
Tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ là 14,8%.
XXX
31. Số 10% nghèo nhất chỉ chiếm 3,1% thu nhập toàn quốc, số 10% giàu nhất chiếm 29,8%.
Chỉ số Gini về phân bố thu nhập gia đình là 37, theo con số công bố năm 2004.
Năm 2008, Việt Nam có đầu tư tương đương 41,9% tổng sản lượng quốc gia, đứng hàng
Nhất toàn thế giới theo tỉ lệ.
Thu nhập Ngân sách quốc gia năm 2008 đạt 24,27 tỉ USD, chi 28,85 tỉ USD, thâm hụt
chính thức 15,87%.
Nợ quốc gia năm 2008 cao bằng 48,8% tổng sản lượng quốc gia, cao hàng 39 trên thế
giới.
Lạm phát năm 2008 cao đến 23,1%, trên thế giới có 208 quốc gia có lạm phát thấp hơn
Việt Nam.
Lãi suất cơ bản, do ngân hàng quốc gia cho các ngân hàng thương mại vay ngắn hạn,
trong năm 2008 vào khoảng 10,25%, và lãi suất chinh thức các ngân hàng thương mại
cho khách hàng tốt nhất vay lại là 15,78% vào tháng 12/2008.
Sản phẩm nông nghiệp chính: gạo, cà phê, cao su, bông gòn, trà, tiêu, đậu nành, hạt điều,
mía, đậu phộng, chuối, gà vịt, cá, hải sản.
Về công nghiệp, chủ yếu là thực phẩm chế biến, quần áo, vải sợi, giày dép, hầm mỏ, than,
sắt thép, xi măng, phân bón hóa học, kiếng, bánh xe, dầu hỏa, giấy.
Công nghiệp phát triển 6,3% năm 2009, đạt tỉ lệ tăng trưởng cao hàng thứ 36 trên thế
giới.
Việt Nam sản xuất 66,81 tỉ kWh năm 2007, đạt hàng cao thứ 39 trên thế giới. Tiêu thụ
khoảng 59,3 tỉ kWh, đạt hàng cao thứ 40 trên thế giới.
XXXI
32. Việt nam sản xuất 313,600 thùng dầu mỗi ngày (114.464.000 thùng/ năm) trong năm
2008, đạt hàng 36 trên thế giới. Tiêu thụ 288,000 thùng dầu mỗi ngày, đạt hàng 44 trên
thế giới. Trong năm 2008, Việt Nam xuất khẩu toàn bộ số dầu sản xuất, và nhập toàn bộ
số dầu tiêu thụ.
Thềm lục địa Việt Nam còn khoảng 600 triệu thùng dầu tính vào ngày 1/1/2009. Theo số
lượng năm 2008 thì Việt Nam có thể xuất khẩu thêm 5 năm nữa (đến tháng 2/2013 sẽ cạn
sạch dầu).
Cho dù ngưng không xuất khẩu kể từ ngày 1/1/2009 thì Việt Nam chỉ có đủ dầu sử dụng
trong nước, theo số lượng năm 2008, cho đến tháng 8/2014. Sau đó Việt Nam sẽ buộc
phải nhập khẩu 100% dầu hỏa sử dụng, trừ khi tìm ra các mỏ dầu mới.
Việt Nam sản xuất 6,6 mét khối khí gas năm 2008, toàn bộ được tiêu thụ trong nước. Với
tổng lượng dự trữ thềm lục địa 192,5 tỉ mét khối, nếu tiếp tục sử dụng khối lượng cùng
năm 2008, Việt Nam đủ khí gas đến năm 2038.
Thâm hụt cán cân ngoại tệ trong năm 2008 lên tới 10,71 USD, chiếm 11,92% tổng sản
lượng quốc gia, và 37,12% ngân sách quốc gia.
Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu tổng cộng 62,69 tỉ USD, trong đó quan trọng nhất là thị
trường Hoa kỳ 18,9%, Nhật 13,6%, Trung quốc 7,2%, Úc 6,7%, Singapore 4,2%. Các
sản phẩm xuất khấu quan trọng nhất là dầu thô, thủy hải sản, gạo, cà phê, cao su, trà,
quần áo, giày dép.
Cùng lúc, Việt Nam nhập khẩu 75,47 tỉ USD, trong đó quan trọng nhất từ Trung quốc
19,4%, Singapore 11,6%, Hàn quốc 8,8%, Thái lan 6,1%. Các mặt hàng nhập khẩu quan
trọng nhất là máy móc và phụ tùng, sản phẩm dầu hỏa, phân bón, sản phẩm sắt thép, bông
gòn, xi măng, xe gắn máy.
XXXII
33. Như vậy, Việt Nam bị thâm hụt mậu dịch, theo con số chính thức, khoảng 12,78 tỉ USD
trong năm 2008, chiếm 16,93% tỉ lệ nhập khẩu và 20,38% tỉ lệ xuất khẩu.
Tính đến cuối năm 2008, Việt Nam có dự trữ ngoại tệ trị giá 24,18 tỉ USD, đủ cho nhập
khẩu khoảng 16 tuần.
Theo con số chính thức, nợ nước ngoài của Việt Nam chỉ khoảng 25,89 tỉ USD tính đến
cuối năm 2008. Tuy nhiên, con số này quá thấp và sự chính xác đáng nghi ngờ.
Cũng tính đến cuối năm 2008, lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chiếm 40,34 tỉ USD.
Về viễn thông, Việt Nam có 29,51 triệu số điện thoại cố định, và 70 triệu số điện thoại di
động. Việt Nam có 67 đài TV, 170,689 máy chủ internet, và 20,834 triệu người sử dụng
internet.
3.4. Giao thông vận tải
Việt Nam hiện có 44 phi trường, trong đó 37 phi trường có phi đạo gia cố tráng xi măng,
9 phi trường có phi đạo dài trên 3047 m, 5 có phi đạo từ 2438 m đến 3047 m, 14 có phi
đạo từ 1524 m đến 2437 m, và 9 có phi đạo từ 914 đến 1523 m.
Có 42 km đường ống dẫn khí, 66 km dẫn gas, và 206 km ống dẫn các sản phẩm đã được
lọc.
Đường hỏa xa kéo dài tổng cộng 2347 km trong đó chỉ có 178 km với bề ngang 1,435 m,
và 2169 km với bề ngang 1 m.
XXXIII
34. Có tổng cộng 222.179 km đường xá, trong đó chỉ có 42.167 km được trải nhựa, và
180.012 km không được trải nhựa.
Về đường thủy, có 17.702 km đường thủy, tuy nhiên đa số chỉ cho các phương tiện thô
sơ.
Các hải cảng chính là: Hải phòng, Đà nẵng, SàiGòn.
4. Hiện trạng văn hóa, xã hội Việt Nam
5. Kết luận
- Nhân dân Việt Nam -
(còn tiếp)
XXXIV
35. Thư Quốc gia số 3
Xem xét và tranh luận về nền Kinh tế Việt Nam hiện nay
XXXV
36. Thư Quốc gia số 4
Ích lợi của HP7 trong việc phát triển Việt Nam thành một cường quốc
Kinh tế tại Đông Nam Á trong một phần tư thế kỷ, và tại châu Á
trong nửa thế kỷ tới
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Theo dự tính, nếu thực hiện đúng, Việt Nam Dân Quốc sẽ có thể đạt Tổng sản lượng
quốc gia (TSLQG) vào mức 80 tỉ USD từ năm 2015, và trong trường hợp thuận lợi nhất
TSLQG sẽ tăng trưởng gấp đôi mỗi 7 năm, để năm 2035 đạt 640 tỉ USD, và năm 2050
đạt 2560 tỉ USD.
Từ thu nhập khoảng giữa, người giàu / nghèo thứ 45 triệu trên tổng số 90 triệu người Việt
Nam, hiện nay vào khoảng 250 USD hàng năm, vào năm 2035 con số này sẽ đạt khoảng
7100 USD, và khoảng 28.000 USD vào năm 2050.
Hơn thế nữa, kể từ năm 2035, mọi người Việt Nam đều sẽ có thể thuê một căn hộ thuộc
chính phủ với giá không quá 100 USD/ căn theo thời giá hiện nay.
TSLQG hiện nay của Việt Nam vào khoảng 45 tỉ USD.
Thư Quốc gia này sẽ liệt kê và phân tích lý do vì sao và bằng phương cách nào mà Việt
Nam Dân Quốc có thể đạt những thành tích trên.
Quản lý kinh tế, tài chánh
XXXVI
37. Về quản lý kinh tế, Chính sách Tài khóa sẽ do Lập pháp kiểm soát, và Chính sách Tiền tệ
do Hành pháp quyết định.
Năm tài chánh bắt đầu từ ngày 1 tháng 10, và kết thúc vào ngày 30 tháng 9.
Trước cuối mỗi tháng 3, Tổng thống và các Thị trưởng phải kết thúc việc đề ra ngân sách
quốc gia và thành phố cho năm sau, rồi gởi qua Quốc hội và Hội đồng Thành phố.
Quốc hội sẽ thông qua ngân sách hàng năm cho chính phủ cấp Quốc gia, trong khi Hội
đồng Thành phố thông qua ngân sách hàng năm cho chính quyền cấp Thành phố.
Do các Thành phố không được quyền tự mượn nợ, mọi chi phí quá mức thu nhập phải
vay mượn từ Ngân hàng Quốc gia.
Tại mọi thành phố, thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt quá 5% tổng sản
lượng của thành phố, và tổng số nợ không được vượt quá 50% tổng sản lượng. Trường
hợp khẩn cấp do thiên tai, chiến tranh, v.v... các Thành phố có thể vay mượn Ngân hàng
Quốc gia khỏi các hạn định này, nhưng phải được Tổng thống cho phép.
Thâm hụt ngân sách quốc gia phải không vượt quá 5% tổng sản lượng quốc gia hàng
năm. Trong trường hợp khẩn cấp, Quốc hội có thể thông qua một điều luật tạm thời cho
phép vượt quá hạn định này.
Trừ trường hợp khẩn cấp, nợ quốc gia bao gồm chính phủ quốc gia và tất cả mọi thành
phố sẽ không được vượt quá 100% tổng sản lượng quốc gia, trong đó nợ của tất cả mọi
thành phố không được vượt quá 50% tổng sản lượng quốc gia, và nợ từ chính phủ quốc
gia sẽ không được vượt quá 50% tổng sản lượng quốc gia.
XXXVII
38. Tổng thống có quyền thôi chức và đề cử Thống đốc Ngân hàng Trung ương. Việc thôi
chức không cần thông qua Quốc hội, nhưng việc đề cử sau đó phải được đa số tại Hội
đồng Quốc gia thông qua thì việc bổ nhiệm vị Thống đốc này mới có hiệu lực.
Chính phủ Quốc gia và chính quyền Thành phố chỉ có thể chi tiêu theo hạn định được
Quốc hội và Hội đồng Thành phố thông qua, theo tỉ lệ được ghi ra trong phần dưới đây
về Hạn định các Chi tiêu Chính phủ.
Hạn định các Chi tiêu Chính phủ
Sau khi tham khảo nhiều hạn mục chi tiêu của nhiều quốc gia giàu mạnh, Hiến pháp 7
buộc các hạn định chi tiêu chính phủ phải tuân thủ theo tỉ lệ phần trăm sau đây:
A. 20% vào An sinh xã hội.
B. 20% vào Giáo dục.
C. 20% vào Y tế.
D. 10% vào Giao thông và Bất động sản.
E. 10% vào An ninh và Quốc phòng.
F. 10% vào nợ quốc gia và chi phí đột xuất.
G. 10% vào lương bổng và chi tiêu hành chánh chính phủ.
A. Các chương trình An sinh Xã hội bao gồm:
- Chương trình hưu bổng cho người chưa từng đóng tiền vào Quỹ hưu bổng, hoặc có
đóng nhưng do quá ít nên số tiền lãnh hàng tháng không đủ mức tối thiểu.
- Chương trình giúp người nghèo, người tàn tật, người thiểu năng.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Chương trình giúp trẻ em cần giúp đỡ và người già không nơi nương tựa.
XXXVIII
39. Chính phủ quốc gia và tất cả mọi chính quyền địa phương bị buộc phải chi tiêu ít nhất
20% ngân sách vào ASXH. Đây thuộc vấn đề Hiến pháp, do đó không tới phiên các
chính phủ, chính quyền, hoặc Quốc hội hay Hội đồng Thành phố sửa đổi tỉ lệ dành cho
ASXH.
B. Giáo dục.
(còn tiếp)
XXXIX
40. Thư Quốc gia số 5
Xem xét và tranh luận về nền Giáo dục Việt Nam hiện nay
XL
41. Thư Quốc gia số 6
Ích lợi của HP7 trong việc phát triển khoa học kỹ thuật cao và chế tạo
hàng có giá trị tăng cao để xuất khẩu
XLI
42. Thư Quốc gia số 7
Xem xét và tranh luận về nền Quốc phòng Việt Nam hiện nay
XLII
43. Thư Quốc gia số 8
Ích lợi của HP7 trong việc tăng cường sức mạnh Quốc phòng Việt Nam
trong tân thiên niên kỷ
XLIII
44. Thư Quốc gia số 9
Xem xét và tranh luận về nền văn hóa và xã hội Việt Nam hiện nay
XLIV
45. Thư Quốc gia số 10
Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Thư Quốc gia số 15 sẽ bàn đến việc quốc gia Việt Nam chúng ta ngày nay vẫn còn trong
thời phong kiến trong các mối liên hệ giữa chính quyền và nhân dân, do đó thua các quốc
gia Dân chủ khoảng 370 năm về phát triển tư duy lãnh đạo, các mối liên hệ chính quyền -
nhân dân.
Về văn hoá, xã hội, triết học, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật, dân trí, sự thua kém này còn
xa vời hơn nữa.
Thư Quốc gia số 10 này sẽ khảo sát các Thời đại văn minh Âu châu từ thời Huyền sử đến
ngày nay, với trọng tâm vào các Thời Phục hưng, Cải cách, và Khai sáng trải qua suốt
khoảng bốn trăm năm, từ thế kỷ thứ 15 đến hết thế kỷ 18.
Sau đó Thư Quốc gia số 11 sẽ đưa ra lời đề nghị Việt Nam phát động một phong trào
toàn quốc theo mô hình các Thời đại văn minh này, để có thể tiếp bước vào Thời Hiện đại
và các Thời đại khác cho kịp với đà phát triển văn minh thế giới trong tân thế kỷ và tân
thiên niên kỷ hiện nay.
Khảo sát tổng quát các Thời đại văn minh Âu châu
XLV
46. Lịch sử Âu châu được chia làm nhiều thời đại, trong đó nhiều sử gia, và theo chúng tôi,
chia ra làm các thời đại sau đây. Về thời gian có thể có nhiều bất đồng giữa các sử gia, vì
các thời đại thường hoà lẫn vào nhau chứ không phân biệt từng năm, thậm chí thế kỷ, một
cách rõ ràng. Đại khái, lịch sử phát triển Âu châu được liệt kê ra như sau:
1. Thời Huyền sử, trước thế kỷ 8 trước Công nguyên.
2. Thời Cổ đại, từ thế kỷ 8 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên.
3. Thời Trung cổ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15.
4. Thời Phục hưng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 16.
5. Thời Cải cách từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 17.
6. Thời Khai sáng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18.
7. Thời Cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
8. Thời Hiện đại từ đầu thế kỷ 20 đến hiện nay.
9. Thời Nano từ khoảng năm 2025 trở đi.
10. Thời Singularity từ năm 2045 trở đi.
Tại Âu châu, sau khi Đế chế La mã lụi tàn vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, văn minh
bị trì trệ nhiều thế kỷ vì nhiều sách vở và văn hóa, văn minh La mã bị mai một đi. Châu
Âu không tiến bộ được gì đáng kể về khoa học kỹ thuật cũng như nghệ thuật và xã hội
trong suốt một ngàn năm.
Lý do là vì sau khi Đế chế La mã sụp đổ, một thời kỳ vô chính phủ, vô luật lệ bao trùm
toàn Âu châu. Một số người giàu có trở thành các lãnh chúa, địa chủ, và truyền thống
cha truyền con nối làm người giàu thêm giàu, người nghèo càng nghèo. Chinh chiến liên
miên giữa các địa chủ, lãnh chúa, chức sắc tôn giáo, càng làm kiệt quệ Âu châu. Để phục
vụ cho mỗi lãnh chúa giàu có là hàng chục ngàn nông dân nghèo khổ cùng cực. Các lãnh
chúa vừa tranh chấp đất đai, nhưng cũng vừa bắt tay nhau để bóc lột giới nông dân không
đất đai trồng trọt.
XLVI
47. Cuộc sống quá nghèo khổ bấp bênh, nên người dân phải dựa vào và đóng góp cho các địa
chủ, lãnh chúa, để được bảo vệ an ninh, do đó góp phần kéo dài thời đại này lên đến
mười thế kỷ. So với thời sống dưới Đế chế La mã, thời này người dân Âu châu sống
nghèo khổ hơn nhiều. Âu châu cuối thời kỳ này không tiến bộ gì bao nhiêu so với cách
đó một ngàn năm.
Thời kỳ này tệ hại đến mức Francesco Petrarca (ông sống từ 1304 đến 1374), một trong
các sáng tạo gia của Chủ nghĩa Nhân văn (humanism) hồi thế kỷ 14 mô tả đó là “Thời
đại Đen tối” (Dark Ages) của văn minh Âu châu.
Mãi cho đến khoảng đầu thế kỷ 15, từ Florence bên Ý, do sự góp sức trải qua trên gần
hai trăm năm của một số nhà nhân văn học như Saint Thomas Aquinas, Giotto di
Bondone, Francesco Petrarca, Leonardo Bruni, Manuel Chrysoloras, Desiderius Erasmus,
Filippo Brunelleschi, Lorenzo Valla, Poggio Bracciolini, một số nghệ thuật gia mới tạo
thành phong trào bi quan ca thán cho hiện tại vào lúc đó, và hồi tưởng lại dĩ vãng oai
hùng của nước Ý cách đó gần một ngàn năm, và văn minh Hy lạp cách đó hơn một ngàn
năm trăm năm. Họ tự hỏi, đâu rồi thời Đế chế La mã thống trị Âu châu, đâu rồi các tư
tưởng vĩ đại của các bậc đại hiền triết Hy lạp?
Thế là vô tình và không thể đoán trước, họ tạo thành phong trào Phục hưng kéo dài 200
năm từ thế kỷ 15 sang thế kỷ 16, với sự chỗi dậy mạnh mẻ, bừng tỉnh, của các phong
trào nhân văn, xã hội, nghệ thuật, khoa học, triết học, chẳng những tại quốc gia họ mà
còn lan ra toàn Âu châu, kết thúc Thời Trung cổ và bắt đầu Thời Cận đại, kéo dài cho đến
đầu thế kỷ 20 khi Thời Hiện đại là bước kế tiếp cho đến ngày nay.
Nhân dân Âu châu sau thời gian ngủ yên một ngàn năm trong Thời Trung cổ bổng trở
mình, phát triển mạnh mẻ trong nhiều lãnh vực như kiến trúc, văn học, âm nhạc, hội họa,
triết học, khoa học, kỹ thuật, vũ khí.
XLVII
48. Đây là thời kỳ cực thịnh tại Âu châu về rất nhiều mặt, dọn đường cho Thời đại Khai sáng
sau này nhấn mạnh hơn vào việc bức phá đi với quá khứ và tưởng tượng ra một thế giới
nơi quyền lực cai trị vào tay những ai có khả năng nhất, bao gồm các triết gia hoặc học
trò họ, hơn là chỉ vào giới địa chủ, lãnh chúa, chức sắc tôn giáo, như Thời Phục hưng trở
về trước (xin xem Thư Quốc gia số 15). Đây cũng là thời đại các quốc gia hùng mạnh
được hình thành như Pháp, Anh, Ý, Đức, Tây Ban Nha ngày nay.
Điều gì đã thúc đẩy sự khai sinh ra Phong trào / Thời đại Phục hưng này? Có lẽ điều kiện
cần và đủ là phải có một (1) sự bi quan ca thán lan rộng về hiện tại và (2) hoài niệm một
quá khứ đẹp đẽ đáng ghi nhớ nào đó, và tại châu Âu vào lúc đó thì không một quốc gia
nào có quá khứ oai hùng như nước Ý với nền văn minh của Đế chế La mã kéo dài nhiều
thế kỷ, và lãnh thổ Đế chế này trải rộng khắp Âu châu, qua đến vùng Trung Cận Đông.
Thời Cải cách chen giữa Thời Phục hưng và Khai sáng, chủ yếu tranh đấu cho điều các
người chủ xướng cho là bình đẳng trong tôn giáo.
Việt Nam ta có thể học hỏi gì từ lịch sử văn hóa, văn minh, triết học, khoa học kỹ thuật.
phát triển xã hội, chính trị Âu châu?
Mời Quốc dân, Đồng bào theo dõi Thư Quốc gia số 11 kế tiếp sẽ bàn về câu hỏi này, và
đề nghị các câu trả lời thích đáng.
- Nhân dân Việt Nam -
XLVIII
49. Thư Quốc gia số 11
Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ (tiếp theo)
Phong trào / Thời đại Phục hưng cho Việt Nam
Tại Việt Nam chúng ta, rất tiếc, do hoàn cảnh lịch sử luôn bị xâm lăng suốt gần 5000 năm
nay. Cho đến ngày nay nước ta vẫn đang bị ngoại bang xâm lăng trên đủ phương diện
không chỉ riêng về quân sự và lấn chiếm đất đai. Kẻ thù đang cố gắng đồng hóa dân tộc
ta về đủ mọi mặt từ chính trị đến văn hóa, từ xã hội đến ngay cả thực phẩm, phân bón,
thuốc trừ sâu.
Chưa bao giờ nước ta bị xâm lăng, đồng hóa toàn diện như hiện nay. Sơn hà đang nguy
biến, quốc gia đang thập tử nhất sinh, và phen này nếu không khéo lèo lái con thuyền
quốc gia ra khỏi nguy hiểm, chúng ta có thể bị xóa tên vĩnh viễn ra khỏi bản đồ thế giới.
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử 4888 năm kể từ khi Vua Hùng dựng nước, chúng
ta không hề được ngơi nghỉ một phút nào để suy nghĩ về đường lối phát triển quốc gia,
dân tộc, theo hướng riêng của chúng ta qua suy nghĩ và thảo luận hơn là các sự thúc ép,
mua chuộc, đe dọa từ ngoại bang.
Chúng ta cũng không thể như vùng Florence bên Ý, vì chúng ta không có được một quá
khứ quá oai hùng nào để hồi tưởng và tiếc nuối.
Lịch sử của chúng ta tràn đầy các cuộc chiến chống ngoại xâm. “Anh hùng” trong tâm
khảm dân tộc ta là các anh hùng chống ngoại xâm chứ chẳng phải các nhà hiền triết cao
minh, các nghệ thuật gia tài giỏi có các danh họa và tác phẩm để đời, các kiến trúc sư vẽ
XLIX
50. nên những công trình xuyên thế kỷ, hay thiên tài khoa học đạt trình độ đủ cao để cả thế
giới biết đến.
Như vậy, không lẽ chúng ta lại tạo ra thêm các anh hùng quân đội, tạo ra các cuộc chiến
để tìm lại vài kỷ niệm đáng ghi nhớ?
Như vậy, dường như chúng ta chỉ còn sự bi quan, ca thán lan rộng về tình trạng quốc gia
hiện tại và trong tương lai, và thứ yếu là một hoài niệm quá khứ nào đó, cho dù khá
gượng ép, để thử tạo thành một phong trào, một luồng cổ vũ, cho các cố gắng chúng ta sẽ
ráng thực hiện để thúc đẩy một Thời đại Phục Hưng (Phục lại và Hưng thịnh hóa) của
dân tộc ta xem sao.
Những điều chúng ta có thể làm
Đó là Phục hưng lại Quốc hồn Quốc túy Việt Nam. Đó là Cải cách toàn diện. Đó là
Khai sáng cho nhân dân ta về các tư tưởng lập quốc và phát triển xã hội, chính trị Âu
châu. Chúng ta không có 400 năm như Âu châu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 để mày mò
qua ba Thời đại để tìm ra phương hướng tốt nhất để thay đổi chính trị, xã hội theo cách
độc đáo riêng của Việt Nam.
Chúng ta cũng không có 200 năm như Âu châu trong thế kỷ 19, 20 để mày mò tìm đọc đủ
loại chủ nghĩa chính trị để áp dụng thử nghiệm vào Việt Nam.
Thư Quốc gia số 41 sẽ chứng minh triết học trị quốc Âu châu vượt trội hơn hẳn triết học
Đông phương do 7 đại triết gia Trung quốc tạo ra.
Như vậy, chúng ta còn chần chờ gì mà không học theo, ứng dụng, các kinh nghiệm lập
quốc, vệ quốc, và phát triển chính trị, xã hội theo Âu châu, để chúng ta đánh bại kẻ thù
L
51. xâm lăng đang ôm khư khư các chủ thuyết do các đại triết gia của họ viết ra từ 2500 năm
trước?
Trong thời điểm hiện tại, năm 2009, chính trị tại Việt Nam không cho phép bất cứ điều
cải cách, học hỏi nào như trên xảy ra. Vì vậy, tiếp tục nền chính trị tại Việt Nam hiện tại
sẽ đồng nghĩa với việc Việt Nam bị xâm lăng, đồng hoá, và bị xóa tên khỏi bản đồ thế
giới. Ngay vào lúc này, nhiều hòn đảo, quần đảo của Việt Nam tại biển Đông đã bị mất
tên, bị ghi vào sách địa lý của quốc gia xâm lăng rằng đó là của họ.
Như vậy, nói khác đi nhưng cùng một ý tưởng, muốn tránh khỏi việc bị xâm lăng và mất
tên trên bản đồ thế giới, người Việt Nam không còn cách nào khác ngoài việc phải thay
đổi chính trị Việt Nam một cách toàn diện, tận nền tảng lập quốc, và Hiến pháp 7 được
viết ra cũng vì lý do này.
Nếu Hiến pháp 7 được áp dụng, người dân Việt Nam có thể sử dụng một số điều khoản
trong đó để Thoát Á, thoát phụ thuộc văn hóa, văn minh Trung quốc, để rút ngắn thời
gian học tập Âu châu, rút ngắn sáu trăm năm kinh nghiệm lịch sử của họ từ thế kỷ 15 đến
thế kỷ 20 xuống còn vài mươi năm, để Việt Nam thoát ra khỏi thời Trung cổ, và bước
vào thời Phục hưng, Cải cách, Khai sáng, và sau đó là Cách mạng công nghệ, Hiện đại,
và thời Nano trong vòng khoảng nửa thế kỷ tới đây.
Sau đây là các đề nghị thực hiện tại Việt Nam Dân Quốc một khi Hiến pháp 7 được nhân
dân Việt Nam phê chuẩn. Không thể ghi ra tất cả, sau đây chỉ là tóm lược vài điều trong
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam, thuộc Chương I, và là chương quan trọng
nhất, của HP7.
Ích lợi của HP7 trong việc Tái lập và Phát triển Quốc hồn Quốc túy Việt Nam trong
Tân Thiên niên kỷ
LI
52. 1. Chương 1, Điều 1, cho phép Tự do Ngôn luận trong kiểm soát tại Việt Nam. Không
hạn chế các tư tưởng chính trị, triết học chính thức. Người Âu châu mất ba trăm năm
trong thời Phục hưng do Leonardo da Vinci khởi đầu vào thế kỷ 15, sang qua Cải cách do
Martin Luther và John Calvin, cho đến thế kỷ 17 mới chỉ bắt đầu vào thời Khai sáng do
René Descartes chủ xướng, có được sự tự do ngôn luận về phương pháp quản trị quốc
gia, giành quyền hành ra khỏi tay các địa chủ, lãnh chúa, quân vương.
Sau đó người Âu châu lại mất thêm ba trăm năm mới đạt được tự do ngôn luận như ngày
nay. HP7 sẽ rút ngắn thời gian này xuống còn vài năm. Dự tính sẽ mất khoảng 5 năm để
soạn thảo các bộ luật về Tự do Ngôn luận trong kiểm soát và chừng mực sau khi HP7
được thực thi tại Việt Nam.
2. Chương 1, Điều 2, Phần 3, 4 bảo đảm 20% ngân sách quốc gia phải được chi dụng vào
an sinh xã hội và y tế. Dân tộc ta vốn có tính lương thiện, “tứ hải giai huynh đệ”, “một
con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, chúng ta thà bớt đi thức ăn trên bàn để chia sớt cho
người nghèo, già nua, bệnh tật. chứ không muốn ăn no trong khi đồng bào xung quanh
đang đói khát.
Hiến pháp 7 đặt nền tảng trên chữ NHÂN, và Việt Nam Dân Quốc cũng vậy.
Người Âu châu mất 600 năm sau Thời Trung cổ mới có được an sinh xã hội, người Việt
Nam ta chỉ vài năm sau khi phê duyệt HP7 sẽ có được việc này. Thư Quốc gia số 91 có
ghi, sẽ có Bộ An sinh Xã hội; và Thư Quốc gia số 93 có ghi, sẽ có Cơ quan Chuyên trách
về An sinh Xã hội trực thuộc Văn phòng Tổng thống. Nhiệm vụ chính của các nơi này là
làm sao sử dụng 20% ngân sách quốc gia, thành phố, một cách tối ưu nhất cho lợi ích dân
nghèo, người già, người bệnh.
LII
53. 3. Chương 1, Điều 3, bảo đảm nhân dân được quyền tự do đi bầu, và Điều 4 cho phép
mọi người bình đẳng trước Pháp luật. Tổng thống Việt Nam Dân Quốc nếu phạm luật sẽ
bị đồng tội với bất cứ người dân nào, và quyền truy tố Tổng thống không nằm trong tay
Hành pháp quyết định, do đó cho dù muốn, Tổng thống không thể tự bao che cho chính
mình, thì làm sao có nạn một đảng phái nào đó một tay che mặt trời công lý như tại Việt
Nam hiện nay?
Chính trị Việt Nam hiện nay còn đang trong thời Trung cổ, quyền hành không vào tay số
người tài giỏi nhất như thời Khai sáng đề xướng cách đây 370 năm, lại càng không về tay
nhân dân như hiện nay tại Âu châu. Phải mất sáu trăm năm tranh đấu kịch liệt, nhiều trận
chiến cục bộ và thế giới kinh hồn, người Âu châu mới có được tự do bầu cử, mọi người
mới có được quyền bình đẳng trước pháp luật.
Nhân dân Việt Nam về nguyên tắc sẽ có ngay các quyền này một ngày sau khi HP7 được
ít nhất 2/3 nhân dân Việt Nam phê chuẩn, tuy về chi tiết sẽ mất vài năm soạn luật.
4. Chương 1, Điều 6, bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi đồng bào từ mẫu giáo đến hết
lớp 9. Điều này sẽ giúp một số đông, có thể lên đến vài mươi triệu đồng bào, có được
một sự hiểu biết cần thiết để họ có thể tìm việc làm và hoàn thành nhiệm vụ với xã hội,
quốc gia, gia đình một cách hoàn chỉnh hơn.
Phần 5 trong Điều 6, Chương 1 có ghi, ít nhất 20% ngân sách quốc gia và thành phố phải
được chi dụng vào giáo dục. Ngoài việc cung cấp cho các trường phổ thông và đại học,
có được thêm hổ trợ tài chánh từ chính quyền các cấp, nhiều phong trào học thuật sẽ được
tổ chức, ví dụ như phong trào viết văn bằng Việt, Anh, Pháp, Đức ngữ, viết lý luận triết
học, xã hội học, chính trị học.
Xã hội Việt Nam sẽ được đa dạng hóa mau chóng từ các phong trào, cuộc tranh luận, thi
tài, học thuật kể trên. Dễ dàng nhận thấy Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc chỉ trong một,
LIII
54. hai thế hệ, và nhất là sẽ rất đồng bộ vì tất cả nhân dân, chỉ trừ một số ít bị bệnh thiểu trí
năng, đều sẽ có dịp học hành với tất cả khả năng và không gì cản trở bất cứ người dân
nào học cho đến cấp cao nhất trừ chính khả năng của riêng họ mà thôi.
Dân tộc ta vốn tính chăm chỉ, hiếu học, nhưng nhiều thiên niên kỷ qua chúng ta đã học
sai và bị dạy sai. Chúng ta học triết từ các triết gia Trung quốc, nay càng ngày càng
nghiệm ra họ sai lầm rất nhiều. Như Thư Quốc gia 41 chứng minh, quốc gia nào lập
quốc trên nền tảng Khổng Mạnh thì chắc chắn đi vào ngõ cụt, nhân dân nghèo đói.
Nếu không nhờ văn minh Âu Mỹ, các triết gia, giáo dục gia Âu Mỹ, thì nay phần còn lại
của thế giới còn sống trong tăm tối theo cả nghĩa đen vì không có điện, tuổi thọ trung
bình không quá 40 vì không có vắc-xin, còn đi xe ngựa, uống nước giếng.
Nhân dân Việt Nam, qua việc chọn Hiến pháp 7, sẽ đồng lúc chọn Thoát Á, chọn Tây Du
Học, để phát triển quốc gia.
Thư Quốc gia số 4, 6, 8, 13 bàn về các lợi ích khác mà Hiến pháp 7 sẽ đem lại cho nhân
dân và quốc gia Việt Nam trong việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, quốc phòng,
và nhiều điều khác.
- Nhân dân Việt Nam -
LIV
55. Thư Quốc gia số 12
Xem xét và tranh luận về các vấn đề khác, chưa được bàn đến trên đây,
tại Việt Nam hiện nay
LV
56. Thư Quốc gia số 13
Ích lợi của HP7 trong việc giải quyết các vấn đề khác, chưa được bàn
đến trên đây, để kiến dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh trong tân
thiên niên kỷ
LVI
57. Thư Quốc gia số 14
Trả lời các lời phản đối HP7
LVII
58. Thư Quốc gia số 15
Dân chủ là Đạo đức; một Hiến pháp Dân chủ là một Hiến pháp Đạo
đức
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tổ quốc Việt Nam chúng ta phải tiến hóa lên một tầm cao mới, phải có Dân chủ, vì Dân
chủ LÀ Đạo đức, là hợp lòng người, là tiến hóa xã hội và phản ảnh văn minh nhân loại
hiện đại.
Việt Nam không thể mãi sống trong thời Phong kiến nơi võ lực quyết định quyền hành
chính trị, quản trị quốc gia. Phong kiến Đảng chủ hiện nay tại Việt Nam đi ngược lại lịch
sử, văn minh nhân loại, ngược lại Triết học (Philosophy), Luận lý (Logic), Đạo đức
(Ethics), và Nhận thức (Epistemology).
Đôi giòng lịch sử, nước Pháp cùng với Anh, Đức có ảnh hưởng lớn nhất trong việc thành
lập trật tự thế giới hiện nay, và Bộ Ba này có thể được gọi là Đệ Tam Đế Chế đã có ảnh
hưởng lớn trong việc thành lập Hoa kỳ, để cùng với Hoa kỳ lập thành khối Thế giới Tự
do ngày nay, và trong 20 năm qua đã có sự gia nhập của 15 quốc gia trước kia thuộc ý
thức hệ Cộng sản vào khối này.
Nói về thời kỳ tách rời khỏi Phong kiến, thì phải nhắc đến Thời đại Khai sáng (Age of
Enlightenment) với các bậc trí giả lập nên nền Dân Chủ Cộng Hòa toàn thế giới, tuy lúc
đầu họ không dự định như vậy, trong đó khởi đầu là do công lao của René Descartes khi
ông xuất bản quyển Discours de la Méthode năm 1637, và kết thúc bằng sự qua đời của
Voltaire năm 1778.
Lịch sử thế giới chẳng qua xoay quanh hai chữ “QUYỀN, LỰC”. Sau đây là vài phân
tích ngắn về Ba thời kỳ mà quyền lực được chia sẻ trong lịch sử nhân loại. Thư Quốc gia
LVIII
59. này sau đó sẽ nêu ra vì sao Dân chủ và Đạo đức luôn đi đôi với nhau, và vì sao Hiến pháp
7 được đặt trên cả hai nền tảng vững chắc này.
-------------------
1. Thời Phong kiến, Quyền Lực nằm trong tay vua, lãnh địa, hoàng đế, sứ quân, v.v…
hoàn toàn chỉ do võ lực làm nên chứ không hề do Lý Lẽ, Lý Luận. Nhìn một cách trừu
tượng hơn thì bất cứ chế độ nào mà Quyền Lực chỉ do Võ Lực tạo nên đều phải gọi là
Chế độ Phong kiến.
Do đó, trên thế giới hiện nay còn vài Chế độ Phong kiến, trong đó có Trung quốc, Bắc
hàn, Việt Nam, Cuba.
2. Kế đến là Thời đại Khai sáng mà Triết gia Immanuel Kant gọi tắt chỉ trong một câu, đó
là thời người ta bắt đầu "được tự do sử dụng trí thông minh của riêng họ” (freedom to use
one’s own intelligence).
Thời kỳ này, Quyền Lực được chuyển sang các thành phần tư sản, quý tộc, nói chung là
các thành phần khoa bảng, có học thức, hoặc các vì vua có học dưới sự cố vấn và giám
sát của các nhà triết học như René Descartes.
Thời kỳ này kéo dài khoảng 150 năm tại châu Âu, bắt đầu khoảng năm 1637 và kết thúc
năm 1778. Khắp thế giới nổi lên phong trào chống chế độ Phong kiến. Tại Hoa kỳ có
cách mạng chống vua Anh quốc, bắt đầu từ Boston Tea Party và thành công với Bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776.
Khởi đầu, tại Hoa kỳ, quyền lực chuyển qua từ vua Anh quốc sang các nhà tư sản, quý
tộc Hoa kỳ, chứ chưa đến tay nhân dân, phụ nữ, người da màu. Mãi đến gần 200 sau, thời
Martin Luther King Jr., thì Hoa kỳ mới có Dân chủ hiện đại như ngày nay.
Tại Pháp cũng có cuộc Cách mạng thành lập Đệ Nhất Cộng hòa năm 1792, tuy nhiên Nền
LIX
60. Cộng hòa này sa vào nhiều vấn đề nghiêm trọng về triết học trị quốc, về chia sẻ quyền
hành giữa các phe nhóm tư sản, quý tộc nên thoái hóa mau chóng và tạo điều kiện cho
Napoléon lật đổ năm 1804, kết thúc 12 năm nền Đệ Nhất Cộng hòa.
Nhân dân Pháp khi đó đã chán ghét nền Cộng hòa nên ủng hộ Napoléon rất mạnh. Sau đó
còn giằng co qua thêm 150 năm tiền Dân chủ, mãi cho đến 1958, tức hơn 300 năm sau
Descartes, nước Pháp mới có nền Dân chủ thật sự:
Đệ Nhất Cộng Hòa: 1792-1804
Đệ Nhị Cộng Hòa: 1848-1852
Đệ Tam Cộng Hòa: 1870-1940
Đệ Tứ Cộng Hòa: 1946-1958
Đệ Ngũ Cộng Hòa: 1958- hiện nay
3. Hiện nay, khắp thế giới đa số các quốc gia đều có Dân chủ, nơi Lý Trí, Lý Lẽ, Lý
Luận, từ NHÂN DÂN mà ra làm nền tảng, nguồn gốc, và tính chính đáng của mọi Quyền
Lực kể cả quyền lãnh đạo quốc gia.
Điều này khác với Thời đại Khai sáng tuy cũng đề cao Lý Trí, Lý Lẽ, Lý Luận, nhưng chỉ
từ các bậc khoa bảng, giàu có, giai cấp tư sản, quý tộc mà ra, vì khi đó Nhân dân còn quá
thất học, đến mức chính Voltaire còn chống lại việc quyền lực vào tay Nhân dân vì theo
ông như vậy sẽ “spreading the idiocy of the masses” (trải rộng ra sự đần độn của dân
chúng).
Nói tóm, (a) thời Phong kiến, quyền lực trong tay ai có võ lực cao nhất, mạnh nắm đấm
nhất; (b) Thời đại Khai sáng, quyền lực trong tay ai có lý, có học nhất, có ngôn từ cao
siêu nhất; (c) thời Dân chủ, quyền lực nằm trong tay Nhân dân bất kể họ có học hay
không.
-------------------
LX